I.
Lời
nói đầu
Ngày
nay, khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển, đời sống văn hóa tinh thần
của con người ngày càng được nâng cao, các hoạt động văn hóa, giải trí phát
triển mạnh mẽ thì kèm theo đó vấn đề bản quyền và quyền tác giả ngày càng được xã
hội quan tâm hơn bao giờ hết.
Với sự bùng nổ thông tin và các tiến bộ của
các ngành khoa học đã tạo ra nhiều hình thức mới mẻ để khai thác tác phẩm và
truyền bá chúng với tốc độ chóng mặt khiến cho việc bảo hộ quyền tác giả ngày
càng khó khăn và phức tạp.
Thư
viện là một trong những nơi có nguồn tài liệu phong phú và đa dạng nhất, là nơi
mà độc giả có thể tìm đến khi thực hiện những đề tài, những công trình nghiên
cứu, hay thậm chí là chỉ để vui chơi, giải trí. Việc độc giả tìm đến thư viện
để học tập ngày càng đông là một trong những thành công lớn nhất của thư viện,
nhưng liệu số lượng tài liệu trong thư viện có đáp ứng đủ nhu cầu của độc giả,
thư viện phải làm sao để khai thác tài liệu đó một cách tối đa mà không vi phạm
đến luật bản quyền, không vi phạm đến quyền tác giả? Những giải pháp nào cho
vấn đề bản quyền trong các thư viện? Điều này đã trở thành vấn đề chung của các
thư viện Việt Nam hiện nay
II.
Quyền
tác giả
1.
Khái niệm
Quyền
tác giả là quyền mà pháp luật ban cho người đã sáng tạo ra tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học (như sách, bài giảng, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm sân khấu,
tác phẩm điện ảnh, tác phẩm tạo hình và mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh,
tác phẩm kiến trúc, phần mềm máy tính…)
Hay
nói một cách khác, quyền tác giả là độc quyền của một tác giả hay một nhóm tác
giả đối với tác phẩm do chính mình tạo ra hoặc được sở hữu.
Theo
khoản 2, điều 4, điều 18 luật Sở hữu trí tuệ thì quyền tác giả (thường gọi là
bản quyền, bản quyền tác giả) là quyền hợp pháp của tổ chức, cá nhân đối với
tác phẩm (văn học nghệ thuật hay khoa học) do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Quyền
tác giả là quyền đương nhiên của một tác giả, nó tự động phát sinh từ thời điểm
tác phẩm được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định bất kể tác phẩm
đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký. Tác phẩm, theo quy
định của luật sở hữu trí tuệ 2005, phải là sản phẩm của “lao động trí tuệ” của
tác giả mà không đơn thuần chỉ là là sự sao chép từ các nguồn đã biết.
Quyền
tác giả bao gồm các quyền nhân thân và các quyền tài sản. Quyền tài sản là “độc
quyền” khai thác hoặc cho người khác khai thác tác phẩm của mình. Quyền nhân
thân (ngoại trừ quyền công bố tác phẩm) được bảo hộ vô thời hạn. Với đa số các
loại hình tác phẩm, quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm được bảo hộ suốt
cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết.
Quyền tác giả có hai đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo
hộ nội dung sáng tạo. Mặt khác nếu hình thức thể hiện của một ý tưởng trùng với
nội dung ý tưởng đó, thì hình thức cũng không được bảo hộ. Không ai bảo hộ một câu nói đơn giản hàng
ngày như "tôi ăn cơm" hay "tôi đi học" dưới dạng quyền tác
giả. Quyền tác giả bảo hộ tác phẩm, còn
tác phẩm là sự hình thành một ý tưởng dưới một hình thức nhất định. Thí dụ cùng một ý tưởng về tình yêu có các
bài hát "Tình ca" của Hoàng Việt, "Hành khúc ngày và đêm",
"Thuyền và biển" của Phan Huỳnh Điểu, v.v. Quyền tác giả chỉ tập
trung bảo vệ hình thức thể hiện tác phẩm, không bảo vệ nội dung tác phẩm. Vì thế, quyền tác giả được phát sinh kể từ
khi tác phẩm được thể hiện dưới một hình thức nhất định. Nói cách khác, căn cứ
phát sinh quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả là các hành vi pháp lý.
Điều này có nghĩa là cơ quan nhà nước sẽ không xem xét nội dung tác phẩm, và
việc đăng ký bảo hộ quyền tác giả chỉ có giá trị chứng cứ chứ không có giá trị
pháp lý như đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Thứ hai là tác phẩm được bảo hộ phải có tính nguyên gốc, tức là
không sao chép, bắt chước tác phẩm khác.
Điều đó không có nghĩa là ý
tưởng của tác phẩm phải mới, mà có nghĩa là hình thức thể hiện của ý tưởng phải
do chính tác giả sáng tạo ra. Như vậy,
một tác phẩm muốn được bảo hộ, phải do chính sức lao động trí óc của tác giả
tạo ra. Tính nguyên gốc không có nghĩa
là không có kế thừa. Ví dụ "Truyện Kiều" của Nguyễn Du là chuyển thể
thơ của tiểu thuyết "Đoạn trường Tân thanh" của Thanh Tâm Tài Nhân. Nhưng
cả Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân đều được công nhận là tác giả của các tác
phẩm của mình.
Quyền tác giả đã khuyến khích nhiều nhà văn, nghệ sỹ, nhà khoa học
sáng tạo. Nói như vậy không có nghĩa là phải một nhà văn danh tiếng, một nhạc
sỹ nổi tiếng hay một đạo diễn chuyên nghiệp mới có quyền tác giả. Quyền tác giả
xuất hiện không phụ thuộc vào nội dung hay chất lượng tác phẩm. Thí dụ bài thi
của sinh viên cũng được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả, cho dù kết quả thi như
thế nào.
Tóm lại, luật về quyền tác giả bảo hộ các tác phẩm gốc mà tác giả
đã thể hiện dưới một hình thức nhất định. Đối tượng bảo hộ quyền tác giả là những
tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật. Quyền tác giả phát sinh kể từ khi ý
tưởng của tác giả được thể hiện dưới một hình thức nhất định. Nội dung quyền
tác giả bao gồm các quyền nhân thân và quyền tài sản. Trong đó, quan trọng nhất
là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền khai thác lợi ích vật chất từ
việc công bố, phổ biến, cho thuê, dịch, phóng tác, cải biên tác phẩm. Phạm vi
bảo hộ chỉ hạn chế ở hình thức thể hiện tác phẩm chứ không nằm ở nội dung tác
phẩm. Hơn nữa, quyền tác giả chỉ chống lại hành vi sao chép hay bắt chước tác
phẩm. Một người khác độc lập sáng tạo ra tác phẩm có nội dung tương tự như một
tác phẩm khác vẫn được công nhận quyền tác giả. Mọi hành vi sử dụng tác phẩm
trong phạm vi bảo hộ mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả đều là
hành vi xâm phạm quyền tác giả (trừ một số hành vi sử dụng hạn chế được quy
định ở Điều 760 BLDS). Người xâm phạm có thể bị buộc chấm dứt hành vi xâm phạm,
xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại theo luật dân sự; bị xử phạt
hành chính hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.
Hiện trạng tuân thủ bản quyền tác
giả trong các thư viện Việt Nam
Ngày
nay, cùng với sự phát triển của các ngành khoa học kỹ thuật - kinh tế - văn hóa xã hội, vai trò của thư viện
trong đời sống ngày càng được khẳng định. Các thư viện trong đó có cả các thư
viện thuộc hệ thống các trường đại học, cao đẳng ngày càng phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Thư viện góp một phần không nhỏ trong việc mở ra cánh cửa
tri thức giúp bạn đọc có thể tự tìm kiếm cho mình được những thông tin phù hợp
với nhu cầu học tập, nghiên cứu, đáp ứng mọi nhu cầu tin của người dùng tin.
Cung
cấp tài liệu là một trong những dịch vụ thường xuyên nhất trong hệ thống thư
viện và các cơ quan thông tin hiện nay, hấu hết người dùng tin của tất cả các
loại hình thư viện đều sử dụng hình thức này, nhất là hệ thống thư viện các
trường đại học, cao đẳng thì nhu cầu cung cấp bản sao tài liệu càng được triển
khai mạnh mẽ, tuy nhiên việc triển khai loại hình dịch vụ này trong thư viện lại
chưa thật sự quan tâm đến vấn đề bản quyền và quyền tác giả.
Các
cơ quan thư viện có nhiều lý do khác nhau để sao chụp và cung cấp bản sao tài
liệu cho người dùng tin như: đa số tài liệu trong thư viện đều ở dạng in - truyền
thống, mặt khác, thư viện còn là nơi mà nhiều người dùng tin cùng quan tâm đến
một tài liệu xác định, xảy ra trong khoảng thời gian xác định trong khi số
lượng tài liệu có hạn nên việc cung cấp các bản sao tài liệu cũng được xem như
một giải pháp tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng tài liệu. Một lý do nữa cho việc
sử dụng dịch vụ sao chép tài liệu trong thư viện đó là do có thể một nội dung
tài liệu nhưng có nhiều tác giả khác nhau với nhiều cách nghiên cứu khác nhau
trong khi đó giá thành tài liệu ngày càng tăng liên tục, thì giải pháp sao chụp
tài liệu cũng là một giải pháp tốt nhất trong bối cảnh kinh tế đang khủng hoảng
như hiện nay.
Đối
với những tài liệu xuất bản, mặc dù trong các tài liệu đều có khuyến cáo về
việc cấp sao chép dưới mọi hình thức nên việc các cơ quan thông tin thư viện
tiến hành sao chụp các loại tài liệu với bất kỳ mục đích nào đều ảnh hưởng đến
vấn đề bản quyền và quyền tác giả. Chính vì thế, việc các thư viện cung cấp các
bản sao tài liệu đã ảnh hưởng không nhỏ tới quyền lợi của các tác giả, các nhà
xuất bản.
Đối
với những tài liệu chưa xuất bản, các tài liệu xám thì nó lại gây ảnh hưởng
theo chiều hướng khác. Về phương diện pháp luật, chính là sự vi phạm về bản
quyền, về quyền sở hữu trí tuệ đối với tài liệu. Mặt khác, nó còn ảnh hưởng đến
quyền lợi về vật chất và tinh thần mà tùy vào mục giá trị và lợi ích mà người
sử dụng nhận được nhờ vào việc khai thác thông tin và sự vận dụng những tri
thức có trong tài liệu.
Đối
với những tài liệu quý hiếm, việc sao chụp lại ảnh hưởng đến sự bảo quản tài
liệucủa chủ sở hữu tài liệu, ảnh hưởng trực tiếp đến độ bền của tài liệu. Có
những tài liệu có giá trị không chỉ về mặt tri thức mà còn mang giá trị về mặt
văn hóa, tinh thần mà không thể đánh đổi được bằng đồng tiền.
Trong
thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, thư viện điện tử, thư
viện số hình thành và ngày càng phát triển, một số thư viện số hóa vốn tài liệu
của mình và chỉ cần một cái click chuột, độc giả có thể download về máy tính của
mình miễn phí những tài liệu mà mình cần, dưới dạng tài liệu tệp, nó càng trở
nên đa dạng và khó kiểm soát, đó cũng là một trong những nguyên nhân gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến bản quyền tác giả.
Hình
thành và phát triển thư viện điện tử, thư viện số là một trong những tiến bộ
vượt bậc của ngành thư viện, nhất là trong thời đại công nghệ thông tin như
hiện nay, con người chủ yếu làm việc và học tập trên máy tính, các máy đọc sách
bằng điện tử ra đời và phát triển liên tục nên bạn đọc ngày càng hướng đến các
loại tài liệu điện tử (ebook) hơn các tài liệu truyền thống là điều đương nhiên,
không thể tránh khỏi. Trong khi đó, nếu mua bản quyền sách điện tử thì giá
thành cao, số hóa tài liệu trong thư viện là một giải pháp giúp tăng thêm vốn
tài liệu điện tử. Vấn đề bản quyền trong số hóa tài liệu cũng như bản quyền
trong môi trường kỹ thuật số nói chung rất phức tạp. Ở nước ta, chương trình số
hoá tài liệu cũng đang được Nhà nước và giới chuyên môn quan tâm. Đặc biệt, Thủ
tướng Chính phủ vừa ban hành văn bản số 8665/VPCP-HC chỉ đạo các Bộ, ngành và
các đối tượng liên quan thực hiện chương trình số hóa hồ sơ, văn bản trình
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ từ ngày 15 tháng 12 năm 2011. Để các chương
trình số hoá tài liệu có thể triển khai có hiệu quả trong thực tế, có rất nhiều
vấn đề cần giải quyết, trong đó có vấn đề pháp luật, cụ thể là các quy định
pháp luật về bản quyền. Nó đã trở thành vấn đề “đau đầu” của không chỉ tác giả,
chủ sở hữu quyền tác giả, cơ quan quản lý nhà nước mà cả những người muốn khai
thác, sử dụng tác phẩm để số hoá một cách hợp pháp. Các thư viện Việt Nam hiện nay
gặp phải rất nhiều câu hỏi về bản quyền khi tiến hành số hoá các tài liệu phục
vụ cho các mục đích khác nhau, ví dụ thư viện số hoá các tài liệu để lưu trữ và
phục vụ bạn đọc tra cứu, tham khảo.
Qua
những phân tích trên, ta thấy cho dù có sao chép, số hóa tài liệu…hay dưới bất
kỳ hình thức nào đều ảnh hưởng đến bản quyền, đến quyền tác giả, và đến chủ sở
hữu tài liệu một cách nghiêm trọng.
Vi
phạm bản quyền là một vấn đề dễ sảy ra trong các thư viện Việt Nam hiện nay, ý
thức được điều này, các thư viện Việt Nam đã có nhiều biện pháp nhằm quan tâm
hơn đến vấn đề bản quyền và quyền tác giả.
Tuyên
ngôn năm 1994 của UNESCO về thư viện công cộng đã khẳng định:
“…các
thư viện có chức năng giúp mọi người tiếp cận một cách tự do, không hạn chế đến
các tư tưởng, văn hóa, văn minh”.
Như
vậy, đễ cung cấp được tài liệu cho người dùng tin mà vẫn tuân thủ đúng luật
pháp trong nước và quốc tế, các thư viện Việt Nam phải chứng minh được việc đó
phi lợi nhuận nhằm cung cấp cho độc giả những tri thức của nhân loại, khai thác
triệt để tài liệu thư viện giúp cho vốn tài liệu thư viện được sử dụng một cách
có ích nhất.
III. Các văn bản pháp lý về bảo vệ bản
quyền
1.
Quyết
định 16/QĐ-BQTG ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Văn phòng đại diện
Cục Bản quyền tác giả tại thành phố Đà Nẵng do Cục trưởng Cục Bản quyền tác giả
ban hành
2.
Bản
ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền kề cận giữa Cục Sở hữu
trí tuệ Vương quốc Thái Lan và Cục Bản quyền tác giả Việt Nam
3.
Nghị
định 76-CP năm 1996 hướng dẫn Bộ luật dân sự về quyền tác giả
4.
Thông
tư liên tịch 04/2003/TTLT-BVHTT-BXD hướng dẫn quyền tác giả đối với tác phẩm
kiến trúc do Bộ Văn hoá-Thông tin và Bộ Xây dựng ban hành
5.
Thông
tư liên tịch 1314-TTLB/XD-VH năm 1991 về quyền tác giả của tác phẩm kiến trúc
do Bộ Xây dựng- Bộ Văn hoá- Thông tin- Thể thao và Du lịch ban hành
6.
Quyết
định 03/QĐ-CBQTG năm 2001 về Quy chế công tác văn thư, lưu trữ do Cục trưởng
Cục Bản quyền tác giả ban hành
7.
Bản
ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền kề kận giữa Cục Bản quyền
tác giả nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cục Bản quyền quốc gia nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
8.
Quyết
định 15/QĐ-BQTG năm 2009 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Văn phòng
đại diện Cục Bản quyền tác giả tại thành phố Hồ Chí Minh do Cục trưởng Cục Bản
quyền tác giả ban hành
9.
Thông
tư liên tịch 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT hướng dẫn áp dụng Bộ luật Dân sự
trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại Toà án
nhân dân do Toà án nhân dân tối cao- Viện kiểm sát nhân tối cao - Bộ Văn
hoá-Thông tin ban hành
10.
Chỉ thị 04/2007/CT-TTg về việc tăng cường bảo
hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính do Thủ tướng Chính phủ ban hành
11.
Nghị định 100/2006/NĐ-CP Hướng dẫn Bộ luật Dân
sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
12.
Thông tư 27/2001/TT-BVHTT hướng dẫn Nghị định
76/CP, Nghị định 60/CP hướng dẫn thi hành quy định về quyền tác giả trong Bộ
luật Dân sự do Bộ Văn hóa-Thông ban hành
13.
Quyết định 88/2006/QĐ-BVHTT ban hành các mẫu
tờ khai, giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan do Bộ trưởng Bộ
Văn hóa và Thông tin ban hành
14.
Chỉ thị 36/2008/CT-TTg về tăng cường quản lý
và thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan do Thủ tướng Chính phủ ban
hành
15.
Nghị định 85/2011/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
100/2006/NĐ-CP hướng dẫn Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả
và quyền liên quan
16.
Thông tư 63-VH/TT-1988 hướng dẫn sử dụng và
phân phối nhuận bút đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học hết thời
hạn hưởng quyền tác giả do Bộ Văn hóa ban hành
17.
Thông tư 05/1998/TT-BVHTT hướng dẫn Hiệp định
giữa Chính phủ Việt Nam
và Chính phủ Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả do Bộ Văn hoá-Thông tin
ban hành
18.
Hiệp ước quyền tác giả WIPO (WCT) năm 1996
19.
Pháp lệnh Bảo hộ Quyền Tác giả năm 1994
20.
Thông báo số 1896/BVHTTDL-BQTG về kế hoạch
thực hiện Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan do Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành
21.
Nghị định 47/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm
hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan
22.
Thông tư 04-VH/TT-1986 hướng dẫn, giải thích
Nghị định 142-HĐBT-1986 quy định quyền tác giả do Bộ Văn hoá ban hành
23.
Công ước toàn cầu về bản quyền
24.
Quyết định 1130/TTg năm 1997 phê duyệt Hiệp
định giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả do Thủ tướng
Chính phủ ban hành
25.
Quyết định 63/2006/QĐ-BVHTT ban hành Quy chế
sử dụng ảnh trong tranh cổ động và bìa xuất bản phẩm do Bộ trưởng Bộ Văn hoá
Thông tin ban hành
IV. Giải pháp thực hiện vấn đề bản
quyền và liên hệ thực tiễn nơi công tác
1. Giải
pháp thực hiện vấn đề bản quyền:
Thư
viện là nơi cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho người đọc phát triển toàn
diện, đặc biệt là tư duy sáng tạo, góp phần giúp nhà trường hoàn thành sự
nghiệp đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước
Muốn
khai thác triệt để vốn tài liệu mà không bị vi phạm đến bản quyền, quyền tác
giả, thư viện phải tuân thủ những quy tắc nhất định, cụ thể như sau:
Trước
hết bản thân thư viện phải là nơi kiên quyết nói không với nạn vi phạm bản
quyền, đấu tranh chống lại nạn vi phạm bản quyền tác giả, không sao chép hay
down load bất cứ một tài liệu nào khi chưa có sự đồng ý của tác giả hay nhà
xuất bản, nơi sở hữu cuốn sách.
Hạn
chế sao chụp tài liệu, không sao chụp hết cả cuốn sách hay cuốn tạp chí mà chỉ
sao chụp một phần hoặc một bài viết hoặc một phần của bài viết trong cuốn tài
liệu đó, nhất là đối với những tài liệu xám thì phải tuân thủ một cách nghiêm
ngặt.
Cần
tạo ra sự khách biệt rõ rệt giữa tài liệu gốc và bản sao chụp lại, nhất là đối
với những cuốn sách có giá trị kinh tế cao
Các
tài liệu được sao chụp không được phổ biến rộng rãi mà càng ít người sử dụng
càng tốt.
Tính
phí tài liệu và phí bản quyền cho những tài liệu được sao chụp là những tài
liệu xám, các tài liệu quý hiếm.
Trên
những bản sao chụp cần phải thể hiện rõ một cách chính xác và đầy đủ những
thông tin chính liên quan đến việc triển khai và sử dụng dịch vụ. Những thông
tin này không chỉ có ý nghĩa và giá trị đối với người quản lý cơ quan thông tin
thư viện mà nó còn mang nhiều ý nghĩa khác như chứng minh tài liệu đó được sử
dụng một cách minh bạch, hợp lý và đúng mục đích bởi sự phức tạp và khó kiểm
soát của bản thân thông tin cũng như việc sử dụng và khai thác thông tin.
Giáo
dục người dùng thư viện về vấn đề bản quyền và quyền tác giả. Đào tạo về kiến
thức thông tin cho người dùng tin.
Trong
việc số hóa tài liệu, chỉ số hóa những tác phẩm đã được công bố, không số hóa
tài liệu xám và tài liệu không công bố, không được làm ảnh hưởng đến việc khai
thác bình thướng tác phẩm, không gây hại đến quyền lợi hợp pháp của tác giả và
chủ sở hữu quyền tác giả.
Đối
với các tài liệu không xác định rõ thời hạn bảo hộ bản quyền hay không xác định
được tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người sử dụng cần cân nhắc những rủi ro
về kinh tế và pháp lý có thể phát sinh để quyết định có tiến hành số hoá hay
không. Ngoài ra, cũng có trường hợp có thể tiến hành số hoá tài liệu nhưng phải
thoả mãn một số điều kiện mà chủ sở hữu quyền yêu cầu.
Tình
trạng bảo hộ bản quyền đối với các nguồn tài liệu được số hoá không đồng nhất
sẽ dẫn đến hành vi số hoá ứng với các hành vi sử dụng tác phẩm khác nhau theo
quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và nếu không được cấp phép có khả năng xâm
phạm đến các quyền khác nhau của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả, quyền
liên quan. Vì vậy, xác định rõ nguồn tài liệu được số hóa góp phần đảm bảo quá
trình số hóa được tiến hành thuận lợi và tránh được nguy cơ xâm phạm quyền tác
giả, quyền liên quan.
2.
Liên hệ thực tiễn nơi công tác
Các
loại hình thư viện đại học là những nơi thường xuyên cung cấp những bản sao tài
liệu cho những người dùng tin của mình. Thư viện Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao
Thắng nằm trong hệ thống thư viện các trường Đại học, cao đẳng nên cũng phải không
nằm ngoài điều đó, nhưng chúng tôi luôn ý thức được rằng, bảo vệ bản quyền tác
giả là một việc làm cần thiết, và đó cũng là sự trân trọng sự lao động trí óc đối
với các tác giả tài liệu.
Để
bạn đọc hiểu rõ hơn về cách thức sử dụng thư viện làm sao cho hiệu quả nhất,
thư viện liên tục mở các lớp đào tạo, hướng dẫn người dùng tin bằng những khóa
học ngắn liên tục trong năm năm vào một ngày cố định giúp cho bạn đọc có thêm những
kiến thức thông tin, bên cạnh đó còn giúp bạn đọc hiểu thêm về bản quyền tác
giả, giúp đỡ, trao đổi với bạn đọc về vấn đề bản quyền và nghiêm túc xử lý
trong vấn đề vi phạm bản quyền tác giả.
Thư
viện hạn chế tối đa việc phôtô sao chụp tài liệu gốc, nếu độc giả cần, chỉ sao
chụp một số trang trong cuốn sách hoặc một số bài trong tạp chí chuyên ngành.
Những
tài liệu quý hiếm được thư viện số hóa và bảo quản riêng một cách cẩn thận
nhất. Tránh tình trạng sao chụp gây ra sự hư hỏng, rách…
Công
nghệ số ra đời thay đổi sâu sắc và toàn diện cơ sở thông tin của xã hội. Với
các thiết bị công nghệ số, dữ liệu thông tin được tạo lập nhanh chóng, lưu trữ
lâu dài, phổ biến rộng rãi và sử dụng thuận tiện. Việc số hoá tài liệu không
chỉ góp phần bảo tồn các di sản văn hoá, mà còn là nguồn lực thúc đẩy kinh tế-
xã hội phát triển. Hiểu được tầm quan trọng đó của tài liệu số. Thư viện trường
Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng cũng đã hình thành và phát triển thư viện điện tử.
Một số sách được số hóa tại thư viện khi chưa xin phép tác giả đều để ở chế độ
đọc tại chỗ và không được phép download tránh trường hợp độc giả download và
truyền bá tràn lan, khó kiểm soát.
Đối
với tài liệu xám, thư viện chỉ cho phép độc giả đọc và tham khảo tại chỗ, không
cho phôtô, sao chụp dưới mọi hình thức, tránh ảnh hưởng đến quyền lợi của tác
giả, điều đó còn giúp thư viện thu thập nguồn tài liệu xám dễ dàng hơn vì chiếm
được tình cảm và sự tin tưởng của các tác giả.
V.
Kết
luận
Khi
xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống con người ngày càng văn minh hơn thì vấn
đề bản quyền và quyền tác giả cũng được xã hội quan tâm sâu sắc hơn. Nó không
chỉ mang lại mang lại nguồn lợi để các tác giả có động lực tái tạo sức lao động
mà nó còn là sự trân trọng đối với các ngành khoa học, đối với tác giả đã và
đang mang những tri thức của mình cống hiến cho sự tiến bộ xã hội và cho nền
văn minh nhân loại.
Bản
thân những người làm thư viện, những người mà thường xuyên tiếp xúc với sách,
với nguồn tri thức nhân loại, phải ý thức được sự quan trọng của bản quyền tác
giả. Đó không chỉ là việc tuân thủ theo đúng pháp luật Việt Nam và pháp luật
Quốc tế mà còn để có những hành vi ứng
xử đúng mực, để biết được giá trị của sự lao động trí óc như thế nào, và còn để
giáo dục bạn đọc, những độc giả đến thư viện phải biết trân trọng sức lao động của các tác giả. Người Việt Nam có câu
“uống nước nhớ nguồn”, nhiều hành động nhỏ sẽ tạo thành một xã hội công bằng,
văn minh, tiến bộ.
Tài
liệu tham khảo
4.
MỤC
LỤC
Trang
I.
Lời nói đầu 1
II.
Quyền tác giả 2
1.
Khái niệm 2
2.
Hiện trạng tuân thủ bản quyền tác giả
trong các thư viện Việt Nam 5
III.
Các văn bản pháp lý bảo vệ quyền tác giả 9
IV.
Giải pháp thực hiện vấn đề bản quyền và
liên hệ thực tiễn nơi công tác
1.
Giải pháp thực hiện vấn đề bản quyền 12
2.
Liên hệ thực tiễn nơi công tác 14
V.
Kết luận 16